Đoạn trích Mị trong đêm tình mùa xuân: sự hồi sinh mãnh liệt của con người

 

V Chng A Ph

Hình minh họa

Nghị luận văn học: phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị qua đoạn trích trên từ đó làm nổi bật chất thơ trong truyện ngắn Tô Hoài

 

“Tây bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hóa những con tàu 

Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát 

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”

(Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên)

               Đã từ rất lâu, mảnh đất Tây Bắc - Điện Biên được coi là quê hương của kháng chiến, quê hương của những anh hùng; là mảnh đất trung du nghèo khó nhưng nặng ân tình khiến ai đã đặt chân đến đây cũng phải bồi hồi xuyến xao. Chính nhà văn Tô Hoài cũng đã dành tình cảm của mình cho Tây Bắc qua những lời tâm sự đầy cảm động: “Đất nước và con người miền tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không thể bao giờ quên lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa rồi cùng vẫy tay gọi theo:”Chéo lù! Chéo lù!” Chính nỗi nhớ sâu nặng ấy là chất xúc tác để Tô Hoài sáng tác nên “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh khắc họa chân thật số phận người lao động miền núi và đặc biệt qua đoạn trích khắc họa hình ảnh nhân vật Mị trong đoạn trích Mị ở đêm tình mùa xuân đã cho chúng ta thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật; từ đó góp phần làm nổi bật nên chất thơ trong truyện ngắn Tô Hoài.

            “Tô hoài là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ. Ông cũng nổi tiếng rất sớm với tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu Ký”. Văn chương của ông lấm láp đời thường. Ông ra đi vì tuổi trời nhưng văn chương ông vẫn còn nguyên vẹn giá trị.” Tô Hoài không chỉ nổi tiếng với tác phẩm kinh điển dành cho thiếu nhi mang tên “Dế mèn phiêu lưu kí” hay viết về Hà Nội mà ông còn để lại cho đời một tác phẩm xuất sắc viết về vùng cao:tập truyện “Tây Bắc” mà đặc biệt hơn cả là “Vợ chồng A Phủ”. “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập truyện “Tây Bắc” năm 1953 của Tô Hoài. Tác phẩm là thành quả của chuyến thâm nhập thực tế, cùng ăn, cùng ở, cùng gắn bó với đồng bào dân tộc miền núi suốt 8 tháng trên núi cao đến các bản làng mới giải phóng. Truyện “Vợ chồng A phủ” cũng như tập truyện “Tây Bắc” nói chung bộc lộ rõ nét tính cách, phẩm chất của người dân Tây Bắc và phong cách Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà; chất thơ, chất trữ tình đằm thắm và lời văn giàu tính tạo hình. Đoạn văn miêu tả nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân nằm ở giữa tác phẩm. Qua đoạn trích, ta cảm nhận được sâu sắc tính cách và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người dân lao động qua những dòng văn miêu tả đầy chất thơ của Tô Hoài. 

               “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện kể về cuộc sống nô lệ của Mị và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra. Mị là bông hoa biết hát của núi rừng Tây Bắc: xinh đẹp và có biệt tài thổi lá rất hay. Vì món nợ truyền kiếp mà cha mẹ để lại, Mị bị bắt về nhà thống lí Pá Tra làm con dâu gạt nợ. Tại đây, Mị phải sống cuộc đời không khác gì địa ngục trần gian bị tra tấn bởi dã man bởi đòn roi, lao động nặng nhọc và đày đọa về tinh thần từ năm này qua năm nọ. A Phủ là chàng trai của núi rừng tự do, vì đánh vỡ đầu A Sử mà bị bắt làm nô lệ cho thống lí. Trong lúc mải mê bẫy nhím để hổ bắt mất bò, A phủ bị bắt trói đứng ở cột nhà. Hoàn cảnh bi kịch ấy đã khiến Mị và A Phủ, hai con người khốn khổ gặp gỡ, đối diện và rồi cùng dìu dắt nhau chạy khỏi nhà thống lí. Đoạn văn miêu tả nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân không chỉ cho thấy được sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị mà đó còn chính là cột mốc, tiền đề cho câu chuyện cởi trói cho A Phủ và Mị tự giải phóng bản thân mình trong đêm mùa đông năm sau.

Hình minh họa

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh mở đầu đầy li kì như một câu chuyện cố tích khi giới thiệu hình ảnh Mị là một cô gái “Dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”  Đó là nét tâm lí của con người luôn cam chịu, buông xuôi trước số phận và có hoàn cảnh sống đầy tăm tối và bi kịch. Sở dĩ ban đầu Mị có nét tính cách ấy là do cuộc hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Bề ngoài đó là một cuộc hôn nhân đầy hoàn hảo khi một cô gái con nhà nghèo gả vào gia đình hào môn nhưng trong thực tế đó chính là hợp đồng nô lệ mà Mị phải kí vào vì món nợ truyền kiếp. Mị không lấy được người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với mỗi người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Mang tiếng là con dâu của người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một nô lệ không hơn không kém. Cô chính là nạn nhân của thế lực cường quyền, thần quyền và phu quyền tra tấn tinh thần và bóc lột sức lao động dã man. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định kết thức cuộc đời mình. Thế nhưng, “Sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.” Chính bởi lẽ đó mà ban đầu, cô xuất hiện với hình ảnh một cô gái đã buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh, trái tim dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên vốn có của nó. 

          Khi miêu tả cuộc sống làm dâu, nhà văn Tô Hoài đã khám phá ra một mảng hiện thực đen tối: cuộc sống, số phận đau khổ của người lao động miền núi- những con người bị cường quyền, thần quyền, cái nghèo, những áp chế về tinh thần đẩy vào tình trạng sống vô nghĩa, vô cảm, sống mà như đã chết. Thế nhưng phải chăng cô Mị trẻ đẹp, tràn đầy xuân sắc xuân tình của ngày xưa đã chết? Không, bằng ngòi bút nhân đạo sâu sắc, Tô Hoài đã cho ta thấy được rằng, dù lay lắt đói khổ, bị đọa đày cùng cực đến đâu, sức sống của người lao động chỉ tạm thời bị vùi dập chứ không thể nào bị triệt tiêu, nó vẫn như đốm than hồng âm ỉ cháy, chỉ đợi ngọn gió lành là sẽ bùng lên. Và ngọn gió ấy đã tới trong đêm tình mùa xuân, để ta thấy được một cô Mị yêu đời đang dần dần hồi sinh trong sự sống. 

           Sau khoảng thời gian lao động vất vả, cuối cùng thì mùa xuân cũng đã trở về trên đất Hồng Ngài, mang đến luồng gió mới cho cảnh vật thiên nhiên cũng như con người nơi đây. Ngày Tết ở Hồng Ngài hiện lên với những nét miêu tả đầy sinh động về thiên nhiên cũng như phong tục tạp quán nơi đây qua ngòi bút miêu tả của Tô Hoài “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn tết khi gặt hái vừa xong không không ngày nào tháng nào. Ăn tết như thế nào cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mơi. Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ” và “đa,s trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi.” Sắc màu mùa xuân đã làm cho tạo vật và con người bừng tỉnh với biên biếc sắc màu và ăm ắp sự sống. Gió rét không ngăn được tiếng cười trẻ con, không ngăn được những tiếng sáo tình tứ gọi bạn đi chơi. Khung cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài được Tô Hoài xây dựng lên thật thơ mộng, êm đềm và đầy chất lãng mạn

             Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đi đám tàn tro đang vây quay cuộc đời Mị. Những lúc này, tâm hồn Mị đang có những sự xáo động bởi những tác động của ngoại cảnh. Nếu như Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao khi được thức tỉnh bởi hơi cháo hành và sáng hôm sau, hắn nhìn cuộc đời khác hơn đẹp hơn: những sự việc quen thuộc hằng ngày trở nên đẹp vô ngần trước mặt Chí “Tiếng chim buổi sáng, tiếng người đi chợ, tiếng chèo đập cá” đã làm cho đoạn văn của Nam Cao trở nên giàu chất thơ vô cùng bởi có lẽ chất “người” của nhân vật đã đem đến chất “thơ” của cảnh vật thì Mị trên đất Hồng Ngài cũng như thế. Tâm hồn Mị như sống lại những phút giây trước khi nghe được âm thanh tiếng sáo vang vọng lúc thì “lấp ló”,”thiết tha bổi hổi”, lúc thì “văng vẳng” cho đến “Lửng lơ”. Chi tiết tiếng sáo đã được Tô Hoài khéo léo lồng ghép vào từng giai đoạn diễn biến tâm lí của nhân vật Mị một cách đấy tinh tế với những từ láy uyển chuyển, mượt mà và sinh động. Tiếng sáo từ ngoại cảnh đã tác động đến Mị, từ từ đi vào tiềm thức của cô và góp phần thức tỉnh một tâm hồn đã nguội lạnh. Khi nghe được tiếng sáo, Mị lẩm nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta không có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Hình minh họa

              Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối Mị với quá khứ hiện tại làm sống dậy trong Mị bao kí ức tươi đẹp “Ngày trước Mị thổi sáo giỏi…. Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.Tiếng sáo đã đánh thức một phần đời tươi đẹp đã qua của Mị, đưa cô từ cõi quên trở về cõi nhớ. Mị bắt đầu có dịp được chiêm nghiệm, tìm lại hình ảnh chính mình ngày trước và trong giây phút ấy, bao sức sống tiềm tàng mãnh liệt bắt đầu tìm về, âm ỉ nhen nhóm trong lòng Mị. Giây phút Mị nhớ về ngày trước cũng giống như giây phút Chí Phèo hoài niệm vậy, một con quỷ dữ cũng đã từng có quá khứ, từng có ước mơ: mơ có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê, vợ dệt vải rồi dành dụm tiền bạc mà sống thật hạnh phúc. Nếu như giây phút hoài niệm của Chí Phèo chứng tỏ nhân tính đang quay về với anh thì ở nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng mãnh liệt cũng đang trỗi dậy khi cô bị tác động bởi tiếng sáo và nhớ về chính mình ngày trước. 

                  Trong đêm tình mùa xuân, Mị cũng bắt đầu uống rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát.” Mị uống rượu một cách rất đặc biệt Cô không uống một cách từ tốn, mà tu cạn bình rượu “Ực” trong nỗi buồn đau tê dại, cô tìm đến rượu như để quên đi thực tại, quên đi số phận bi thảm của mình, nuốt đắng cay vào lòng và quên đi tất cả mọi thứ xung quanh từ “Cả nhà thống lí pá tra vừa ăn xong bữa cơm tết cúng ma” cho đến “Xung quanh chiêng đánh ầm ĩ. người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xống, run bần bật. vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu lên bếp lửa” Những cảm xúc lâng lâng trong tâm hồn Mị đi kèm theo những hình ảnh sáo, rượu đã cùng nhau tạo nên chất thơ cho tác phẩm. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị. Cô đang từ từ sống về ngày trước và không điều gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị lúc này “Lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước.”

                Lúc bấy giờ, “rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trở một mình giữa nhà.” Khoảnh khắc mọi người kết thúc buổi chơi ngày tết cũng là lúc tâm hồn, sức sống của Mị mới bắt đầu trỗi dậy. “Mãi sau, Mị mới trỗi dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào trong buồng” bởi chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết cả. Những năm trước cô cũng không thèm đi nhưng năm nay, Mị đã bắt đầu biết trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng để chờ đợi những tia hy vọng, những điều tốt đẹp đến với mình. Tâm hồn của Mị lúc này phơi phơi niềm vui “Đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước.” Lần đầu tiên Mị bắt đầu ý thức được tuổi xuân của mình: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ” và cô khao khát được đi theo tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc, tự do:”Mị muốn đi chơi.” Chính lúc đó, Mị tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc n“Không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”. Những hồi tưởng ấy làm Mị trẻ lại song cũng khiến cô ê chề, đau đớn. Đó cũng chính là chất xúc tác mạnh mẽ làm trồi dậy khát vọng sống bên trong Mị. Ý thức phản kháng của cô bắt đầu trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay. chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra.” Niềm vui và nỗi đau khổ cứ đan xen giằng xé nơi tâm hồn Mị. Diễn biến tâm trạng của cô lúc này bắt đầu phức tạp, có đôi lúc mơ hồ nhưng tất cả lại làm bật lên rõ nét khát vọng sống, sức sống tiềm tàng mãnh liệt ở Mị. Mị muốn được giải thoát bao nỗi đọa đày, số phận ê chề. Chính sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy cũng là tiền đề, khởi đầu cho việc cởi trói giải thoát cho A Phủ và giải phóng cho chính mình vào mùa đông năm sau. Số phận của Mị cũng chính là sự hồi sinh mãnh liệt của cuộc đời cô bởi lẽ sự hồi sinh của con người là vô cùng quý giá.

                “....Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vãn sống âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt.” (Tô Hoài) Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã khắc họa chân thật cảnh sống của con người vùng núi cao Tây Bắc, đồng thời bộc lộ rõ nét phong cách của Tô Hoài: Màu sắc dân tộc đậm đà và đặc biệt là chất thơ, chất trữ tình đằm thắm được thể hiện rõ nét qua đoạn trích Mị trong đêm tình mùa xuân. Chất thơ trong văn Tô Hoài được thể hiện sâu sắc qua đời sống sinh hoạt và tạp quán của con người khi xay dựng những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật của người Tây Bắc như ngôi nhà gỗ với bếp lửa bập bùng suốt mùa đông, cảnh cõng nước, quay sợi và không khí ngày tết của Hồng Ngài mang đậm hơi thở, hương vị của núi rừng cuộc sống chất thơ cũng toát ra bởi chính con người nhân vật Mị. Chính sức sống tiềm tàng, rạo rực âm thầm cháy đã ngăn cản sự lụi tàn của tâm hồn và trở thành sức mạnh giúp cô xua tan đi tất cả bóng đêm trong số phận. Tô hoài đã tạo nên chất thơ trong tác hẩm qua ngôn ngữ nghệ thuật khi sử dụng hàng loạt âm thanh cùng nhiều hình ảnh gợi cảm vừa rực rõ màu sắc vừa rất đỗi nên thơ cũng như kết hợp nhuần nhuyễn không khí lãng mạn và bút pháp trữ tình cũng sự mượt mà của văn phong điêu luyện. Chính những yếu tố trên cùng với những tình cảm thương mến của Tô Hoài dành cho người dân tây bắc đã tạo nên một đêm tình mùa xuân rất thơ mộng làm bừng sáng lên cuộc đời tăm tối của Mị cũng như để lại biết bao tình thương nỗi nhớ trong lòng hàng triệu độc giả bởi những câu văn mang nặng hơi thở cuộc sống và tình thương bao la của một nhà văn rất đỗi tài năng!

            “Nghệ thuật luôn nằm ngoài định luật của băng hoại chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thời gian vẫn trôi đi, có những cuộc chiến qua đi, những giá tri mới được tạo dựng những những gì là văn chương, nghệ thuật đích thực sẽ luôn sống mãi cùng thời gian nhờ những giá trị mà nó mang đến cho cuộc sống con người. “Vợ chồng A Phủ” chính là những giá trị tốt đẹp, là bức tranh khắc họa chân thật cảnh sống cũng như phẩm chát, đức tính và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của đồng bào tây bắc, chính bởi lẽ đó mà tác phẩm luôn sống trọn vẹn trong lòng người đọc bao năm tháng qua!

Ng Khánh Lệ Huyền


Nhận xét