Đây thôn Vĩ Dạ: một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình
ĐÂY THÔN VĨ DẠ: MỘT CON CHIM SƠN CA NGỒI TRONG BÓNG TỐI HÁT LÊN NHỮNG TIẾNG ÊM DỊU ĐỂ LÀM VUI CHO SỰ CÔ ĐỘC CỦA CHÍNH MÌNH
Loài chim sơn ca luôn cất tiếng hót mê hoặc
lòng người và chúng cũng là biểu tượng cho sự hạnh phúc, hy vọng, tự do và tuổi
trẻ. Thế nhưng đây cũng là loài chim đơn độc hơn bao giờ hết. Người thi sĩ cũng
vậy, một khoảnh khắc nào đó họ cũng là “Một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối
hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình” (Shelly)
hay “Trải niềm đau trên giấy mong manh”. Trong những giây phút đơn độc, khắc
nghiệt nhất của cuộc đời, trong những lúc thấm được nỗi đau giày vò thân xác lẫn
tinh hồn thì chỉ thơ ca nâng vịn con người đứng dậy. Chàng thi sĩ tài ba Hàn Mặc
Tử cũng không ngoại lệ, có lẽ nếu không có thi ca, Mặc Tử hẳn đã “mồ côi”. “Trước
không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời
Việt Nam với cái đuôi chói lóa rực rỡ của mình”. Trong những ngày tháng cận kề
với cái chết, những liên tưởng và tình cảm phong phú, huyền ảo và pha sự điên
loạn bừng lên trong hồn thơ Hàn Mặc Tử. Thế nhưng chúng ta lại khám phá ra
trong những vần thơ bi thương ấy lại xuất hiện một điểm nhấn đầy trong sáng,
thiết tha, là giấc mơ về cuộc đời Hàn Mặc Tử - bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đây có
lẽ cũng chính là tác phẩm nổi tiếng nhất, được nhiều người biết đến nhất của
người thi sĩ đất Quy Nhơn.
Gắn liền với thi phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” là
một giai thoại xúc động: thời kì làm việc ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã thầm yêu
Hoàng Cúc, con một viên chức cao cấp. Thi nhân yêu nhưng chỉ dám đứng nhìn từ
xa, bởi khi ấy rụt rè lẽn bẽn và quan trọng nhất bản thân chỉ là học trò nghèo
không dám mơ tưởng cao. Sau đó, Hoàng Cúc theo chân cha về Vĩ Dạ - Huế, Hàn Mặc
Tử thẫn thờ:
“Ngày
mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em
lấy chồng rồi hết ước mơ
Tôi
sẽ đi tìm mỏm đá trắng
Ngồi
lên để thả cái hồn thơ”
Mãi
sau này vào mùa hè 1939, Hoàng Cúc biết được tin Mặc Tử lâm bạo bệnh qua người
anh họ. Nàng bèn viết lá thơ để an ủi một tâm hồn trong trắng nhưng bất hạnh.
Chính vì xúc động bởi tấm lòng của cố nhân mà nhà thơ đã viết nên một tác phẩm
quá đỗi xúc động. Mối tình đơn phương hư ảo ấy có lẽ chỉ đem đến cho cảnh sắc
thiên nhiên Vĩ Dạ thêm chất mộng mơ và thấm nỗi buồng man mác.
Trong
bài thơ của mình, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một thôn Vĩ Dạ đầy mê đắm, với những
hình ảnh như vừa thoáng vừa hiện ra từ trong cõi nhớ, lại vừa như một nỗi ám ảnh
từ rất xa xưa trong tiềm thức. nhất là trong khổ thơ đầu tiên này:
“Sao
anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn
ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá
trúc che ngang mặt chữ điền”.
Không
giống với các bài thơ khác, mở đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ không phải là một câu miêu tả
hay là câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” Cảm
hứng bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, những lời thơ
làm cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một niềm thơ mộng
trữ tình. Mở đầu bằng một câu hỏi nhưng lại không cần đến câu trả lời! Dường
như đây chính là cái cớ trọn vẹn nhất để đưa dòng hồi tưởng của tác giả đi đến
nơi người mình thương. Câu thơ như một câu hỏi, lại vừa như lời trách móc. Vừa
là một lời trách cứ nhẹ nhàng, vừa là một lời mời ý nhị, cấp của bóng hồng xứ
Huế. Chỉ một câu “Sao anh không về” mà nghe lòng nghẹn lại, như thể nó dồn nén
tất cả sự chờ mong, khắc khoải đến mòn mỏi. Không hiểu cái cơ chế nào đã xui
khiến ông lựa chọn những hình ảnh lộng lãy mà có sức ám ảnh đến thế ? Lại nói về
sự tinh tế trong ngôn ngữ của Hàn Mặc Tử: tại sao ông không dùng “Sao anh không
về thăm thôn Vĩ Dạ” mà là “chơi thôn Vĩ”. Chỉ là một từ “chơi” thôi mà đã toát
lên bầu không khí thân thiết, ấm cúng. Không phải là những vị khách ở xa ghé
qua “thăm”, mà từ lâu, nhà thơ đã xem mình là người thân trong gia đình, hay tới
lui “chơi” thôn Vĩ. Đó cũng chính là khao khát mãnh liệt nhất của nhà thơ, được ghé thăm nơi Vĩ Dạ thơ mộng!
“Vĩ
Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc
tre cầu trúc không buồn mà say”.
Thôn
Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái tươi bốn
mùa, với những ngôi nhà duyên dáng… đi vào văn học câu thơ tuyệt bút: “Vườn ai
mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt” là tính từ gợi tả sự bóng láng và mềm mại trên bề
mặt của thực vật, nhìn thấy thích mắt. Chỉ một chữ ấy thôi mà đã gợi lên được vẻ
đẹp tinh khôi tràn đầy sức sống của cảnh vườn. “Mướt” kết hợp với “quá” càng
làm tang thêm sắc thái biểu cảm của từ này. Từ ngữ giàu sức gợi tả và hình ảnh
so sánh độc đáo càng làng tang thêm vẻ đẹp của ngôn từ Hàn Mặc Tử.
Vĩ
Dạ từng gắn liền với những câu hò mái nhì, mái đẩy, hò giã gạo… từng làm say đắm
lòng người đã mấy trăm năm qua:
“Núi
Truồi ai đắp mà cao
Sông
Hương ai bới, ai đào mà sâu
Nong
tằm ao cá nương dâu
Đò
xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò”.
Những
tiếng “ai” thân thương trong câu hò xứ Huế ấy đã vọng vào thơ Hàn Mặc Tử, gợi
bao ám ảnh nhớ thương bồi hồi: “Vườn ai..thuyền ai… ai biết tình ai có đậm đà”.
Và khung cảnh Vĩ Dạ hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực rỡ,
lại vừa có những cành trúc đung đưa bước ngõ nhà ai. Thôn Vĩ nói riêng và huế
nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và vườn cây quen thuộc.
Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài thơ “Mùa xuân chín” của tác giả:
“Trong
làn nắng ứng khói mơ tan
Đôi
mái nhà tranh lấm tấm vàng”
Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn
tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ
“nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong veo và sáng
đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Cái nắng tinh khôi,
trong trẻo ấy thật khiến người ta cảm thấy dễ chịu, đón nhận một ngày mới tràn
đầy năng lượng. “Nắng mới” cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho
một năm mới nên bao giờ cũng rực rỡ nồng nàn. Hàn Mặc Tử quả thực là một ngòi
bút có tài quan sát tài tình và trí tưởng tượng phong phú.
Cảnh
vật dù đẹp cách mấy cũng sẽ vô cùng đơn độc nếu thiếu đi sự hiện diện của con
người. có sự sống của con người, khung cảnh Vĩ Dạ thôn nay sinh động hơn bao giờ
hết. Nhưng người ở đây không phải là toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ là khuôn
mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt “Chữ điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu,
đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ
đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn
ai” và vườn cô gái đang đúng cùng là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với
nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ - một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối
với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm.
Thôn
vĩ nằm ngay cạnh bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳng nhịp sống của con người ở đây
cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương: “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững
lờ trôi” – nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả
đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bang khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muôn hư ảo
trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của nhà thơ đã chuyển sang một gam
màu khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng
của Hàn Mặc Tử:
“Gió
theo lối gió, mây đường mây
Dòng
nước buồn hiu hoa bắp lay
Thuyền
ai đậu bến sông trăng đó
Có
chở trăng về kịp tối nay”.
Cảnh
nên thơ quá, thơ mộng quá và cũng đa tình quá! Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật
là tài tình. Thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Hàn Mặc Tử đã lướt bút viết nên những
câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa tình yêu bao la, nồng cháy đến vô
cùng.
Thực
tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối
lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang
chính vì thế mà nó bay thẳng vào trong thơ Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết
hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi
theo đường của gió, mây theo đường mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không
còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình
ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên nỗi buồn thê lương của mình, về sự xa cách
của mình với người yêu và cũng có thể sự xa cách ấy là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử
giờ đây đã là một thế thân, đang nằm đợi cái chết từng ngày một.
Chúng
ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như những đoạn trước nữa
nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất: “dòng nước buồn thiu hoa bắp
lay”. Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp tẻ nhạt.
Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho dòng nước nên u buồn,
xa vắng. “Dòng nước buồn” vị tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn
chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào trong dòng sông? Câu thơ này dường như
còn thể hiện biện pháp sống thường ngày của người dân nơi đây: một lối sống êm
đềm và buồn tẻ. Hình ảnh “Hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn
bao phủ từ bầu trời tới mặt ddaasst, từ gió, từ mây đến dòng nước và hoa bắp
trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng
một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo, mộng
tưởng.
Trên
cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ao ước một thứ có thể ngược dòng
về với mình, ấy là “trăng”.
“Thuyền
ai đậu bến sông trăng đó
Có
chở trăng về kịp tối nay?”
Vầng
trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh
tình yêu chưa bị phôi phai: “Mở của nhìn trăng, trăng tái mật! Khép lòng đốt nến,
nết rơi châu…” Hàn Mặt Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác
không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả
lơi:
“Gió
tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ
tan thành vũng động vàng kho”
Hay
“Trăng
nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi
gió đông về để lả lơi”.
Một
không gian tràn ngập đầy ánh trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…
không gian “Bến sông trăng” nghe sao mà quen thuộc đến thế: “Bến sông trăng ôi
nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến, biết khi nào được lại em yêu hỡi”. Trong các
lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “Niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước
có trăng về như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết
thuyền có chở trăng về kịp cho người trên đợi hay không? Đó là một câu hỏi biểu
lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của
mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với
ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng byoori
trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau
đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về
kịp tối nay?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc
khoải, bồn chồn vừa như hy vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào
trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử
khi nhớ về thôn Vĩ Dạ.
Tiếp
nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân
trong cái mênh mông, ao la của trời đất. Đó là sự hy vọng, chờ đợi, mong mỏi và
mộ niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng
nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở
đây:
“Mơ
khách đường xa khách đường xa
Áo
em trắng quá nhìn không ra”.
Vườn
đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng của người “Khách đường xa”. Điệp từ
“khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trong ngóng đến da
diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi xa cách nhưng không chỉ có không
gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn và tình cảm. Có thể “Đường xa” là xa về
không gian, về thời gian những cũng có thể là “đương đến trái tim xa”, cho nên
tất cả chỉ gói gọn trong chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “Sương khói” cùng với cụm
từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong
cõi mộng tạo cho nhà thơ có một cảm giác bâng khuâng, ngớ ngẩn. Mà tại sao lại
“nhìn không ra!” Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào
làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ
là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Và hình
như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi
nhân không khỏi nghi ngờ:
“Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai
biết tình ai có đậm đà?”
“Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mù mờ, ảo ảo lại còn cả cả
sương và khói khiến cho ta thấy con người đang ở ranh giới giữa hai thế giới sống
và chết, và thế giới nào cũng lờ mờ đáng sợ. Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của
một con người đang phải đối mặt với “Sinh lão, bệnh tử”. Tác giả đã cố níu kéo,
cố bám víu nhưng không được vì cảnh và đời toàn là “sương” và “khói”. Điều đặc
biệt ở hai câu thơ này là ngoài nói về nỗi đau, tác giả còn miêu tả rất thực về
cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa
đi và có thể tình người cũng hòa đi nên tác giả mới sợ điều đó. Tác giả không
dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ “ai” – điệp từ “ai” dường như xuốt
suốt cả bài thơ khổ thơ nào cũng hiện diện của “ai”, từ “vườn ai”, “thuyền ai”
và bây giờ thì “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Câu thơ ngân xa như một tiếng
than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời
thơ dường như nhắc nhở những không bộc lộ tuyệt vọng hay hy vọng của một thi
nhân khát khao yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn.
Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy cảm thông và xót xa cho
tác giả nhiều hơn.
Bài
thơ bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” và kết thúc
bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” khiến cho nỗi niềm
của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ
hôm nào có bền chặt cho chàng? “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Trong đau thương tột
cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một niềm
quê thân thiết và một mối tình đầy mộng ảo để tạo nên “viên ngọc thơ tuyệt vời,
chói lọi nghìn năm” (Chế Lan Viên). Những câu hỏi tut từ trong bài như xoáy lên
mỗi lúc càng cao hơn? Cảnh vật thì thật đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn
xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả dường
như vô tình làm nhòe đi để thêm nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà
thơ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung
linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy tâm trạng của chủ thể trữ tình
thì cũng trỏ nên buồn, buồn nhưng mà có hồn.
Thật
vậy, âm hưởng của bài thơ chỉ đúc trong 1 chữ “buồn” nhưng không làm cho người
ta bị lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu
thiên nhiên, mãnh liệt, nồng cháy và một khác vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những
chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu từ đã được Hàn Mặc Tử chuyên chở
bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng ép,
ngược lại ta như đang cùng sống với nhà thơ trong cái thế giới huyền ảo của
ông. Bài thơ là sự kết hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những
nét trong sáng gắn với tình yêu tha thiết hướng về Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
“Đây
thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua
tâm hồn thơ mộng, giàu trí trưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa
tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ
xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh
nên thơm tràn đầy sức sống và ẩn trong đó là nỗi buồn lòng của chsnh bài thơ: nỗi
đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của
mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn về tinh thần và thể
xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn
cố gắng vượt lên nó để khi lìa xa cuộc đời này không còn gì để hối tiếc.
Trải
qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, bồi hồi và day
dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức
bay bổng đến kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê
Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức
tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những đau thương, bất hạn của đời mình
thành những đóa hoa thơ, mà trong đó tươi mát nhất, thanh khiết nhất là “Đây
thôn Vĩ Dạ”. Có lẽ chính vì vậy mà đến ngày nay, bài thơ vẫn sống mãi trong
lòng bao thế hệ độc giả.
Nhận xét
Đăng nhận xét